Lịch sử Heidelberg

Heidelberg bên bờ sông Neckar trong đêm.Quảng trường vua Karl (Karlsplatz) và sông Neckar với cầu Cũ (Old Bridge) vắt qua sông.

Buổi đầu lịch sử

Từ khoảng 600,000 năm tới 200,000 năm trước đây[cần dẫn nguồn],một người cổ đại được gọi là "Người Heidelberg - Heidelberg Man" đã chết tại Mauer thuộc bang Baden gần đó. Xương hàm của Người Heidelberg đã được phát hiện vào năm 1907. Các biện pháp giám định niên đại khoa học đã xác nhận những di chỉ còn lại của Người Heidelberg là những bằng chứng sớm nhất về đời sống con người tại châu Âu. Vào thế kỉ thứ năm trước Công nguyên, một pháp đài của dân tị nạn và một địa điểm thờ cúng của người Celtic đã được xây dựng trên đỉnh Heiligenberg, dịch nghĩa là "Ngọn núi của những vị thánh". Cả hai di tích này đến nay vẫn còn có thể nhận diện được. Vào năm 40 sau công nguyên, một pháo đài đã được xây dựng và được sử dụng bởi đoàn hệ Rô-man thứ 24 và đoàn hệ Cyrenaican thứ hai (CCG XXIIII and CCH II CYR). Người Romans đã xây dựng và gìn giữ các castra (các trại quân đội thường trực) và một tòa tháp nổi bật bên bờ sông Neckar. Họ cũng xây một cây cầu bằng gỗ trên các cột đá bắc qua sông. Trại quân đội bảo vệ điểm định cư dân sự đầu tiên được phát triển tại đây. Người Romans tồn tại tại đây cho tới năm 260 sau công nguyên, khi trại bị xâm lược và chiếm đóng bởi các bộ lạc Giéc-manh (Germanic tribes).

Thời trung cổ

Có thể truy nguồn thành phố Heidelberg thời hiện đại trở lại thời kì ban đầu vào thế kỉ thứ năm. Làng Bergheim (dịch nghĩa "Nhà trên núi - Mountain Home") được nhắc đến lần đầu tiên thời kì này và được xây dựng từ năm 769 sau công nguyên. Làng Bergheim ngày nay nằm ngay chính giữa thành phố Heidelberg hiện đại. Người dân tại đây dần dần cải đạo chuyển qua đạo Thiên chúa. Vào năm 863 sau công nguyên, tu viện nhà nguyên thánh Michael đã được thành lập trên đỉnh Núi Thánh Heiligenberg bên trong tòa thành đôi của pháp đài Celtic. Vào năm 1130, tu viện Neuburg được lập nên tại thung lũng sông Neckar. Đồng thời, vùng Địa phận giám mục Worms mở rộng sức ảnh hưởng đến tận vùng thung lũng này, thành lập nên Tu viện Schönau Abbey vào năm 1142. Thành phố Heidelberg hiện đại có gốc rễ từ nhà nguyện thế kỉ thứ 12 này. Lần đầu tiên Heidelberg được nhắc đến là trong một tại liệu tại Tu viện Schönau Abbey có niên đại từ năm 1196. Thời điểm này được coi như ngày thành lập nên thành phố. Vào năm 1155, lâu đài Heidelberg và những điểm định cư lân cận xung quanh đó đã bị đánh chiếm và rơi vào tay nhà Hohenstaufen. Bá tước của nhà Hohenstaufen trở thành Bá tước sứ quân của vùng sông Rhine - Count Palatine of the Rhine (tiếng Đức: Pfalzgraf bei Rhein). Vào năm 1195, ngôi vị Tuyển hầu tước vùng Palatinate được chuyền qua tay Gia tộc Welf thông qua hôn nhân.

Lâu đài Heidelberg, ở đây được thể hiện qua tranh của Carl Blechen, đã bị người Pháp phá hủy trong chiến tranh giành quyền kế tục ngôi vị Tuyển hầu tước vùng PalatinateCảnh lâu đài Heidelberg nhìn từ Kornmarkt (Chợ ngô - Corn Market)

Vào năm 1225, Louis I, Công tước vùng Bavaria chiếm lấy vùng Palatinate, và hệ quả của cuộc xâm chiếm là lâu đài rơi vào quyền kiểm soát của ông. Cho tới năm 1303, một tòa lâu đài khác đã được xây dựng để phục vụ cho mục đích phòng thủ. Vào năm 1356, các Bá tước vùng Palatine được trao toàn quyền cai trị tại Golden Bull, ngoài ra còn được phong tước Tuyển hầu thân vương. Vào năm 1386, Đại học Heidelberg đã được thành lập dưới sắc lệnh của Rupert I, Tuyển hầu tước Palatine.

Lịch sử hiện đại

Đại học Heidelberg đóng vai trò dẫn đầu trong thời đại của Chủ nghĩa nhân văn và Phong trào cải cách, và sự mẫu thuẫn giữa Học thuyết Lutheranism và Học thuyết Calvinism, trong thế kỉ thứ 15 và 16. Thư viện Heidelberg, được thành lập vào năm 1421, là thư viện công cộng cổ nhất vẫn còn tồn tại tại Đức. Vào tháng 4 năm 1518, một vài tháng trước khi tuyên bố bản 95 luận cương nổi tiếng của mình, Martin Luther đã được nhận vào tại Heidelberg, để bảo vệ các luận án này. Vào năm 1537, tòa lâu đài nằm trên đỉnh núi cao đã bị phá hủy trong một trận nổ thuốc súng. Cung điện của Công tước đã được xây trên nền móng của lâu đài nằm dưới thấp.

Cảnh vây hãm thành Heidelberg năm 1622

Tuyển hầu tước Frederick III, người trị vì vùng Electoral Palatinate từ năm 1559 tới năm 1576, đã ủy nhiệm việc biên soạn sách giáo lý vấn đáp dành riêng cho vùng lãnh địa của mình. Mặc dù lời giới thiệu của cuốn sách vấn đáp có ghi công biên soạn là của "toàn bộ khoa thần học tại đây" (tại Đại học Heidelberg) và "toàn bộ những người trông nom và những người phục vụ tận tụy của nhà thờ" cùng tham gia trong việc biên soạn cuốn sách giáo lý vấn đáp, nhưng Zacharius Ursinus vẫn thường được coi là tác giả biên soạn chính. Caspar Olevianus (1536–1587) trước đây được coi là đồng tác giả của tài liệu này, mặc dù lý thuyết này hiện nay đã bị giới học giả hiện đại bác bỏ. Johann Sylvan, Adam Neuser, Johannes Willing, Thomas Erastus, Michael Diller, Johannes Brunner, Tilemann Mumius, Petrus Macheropoeus, Johannes Eisenmenger, Immanuel TremelliusPierre Boquin đều có thể là những người cùng bỏ công sức đóng góp vào quá trình biên soạn cuốn sách giáo lý theo góc độ nào đó. Bản thân Frederick là người đã viết lời tựa của cuốn sách và quan sát kiểm tra kĩ càng các công đoạn biên soạn và xuất bản. Frederick, một thành viên theo giáo lý Lutheran chính thức, nhưng có xu hướng Cách tân rõ rệt, muốn làm dịu lại tình hình tôn giáo tại vùng lãnh địa của mình nơi tập trung rất nhiều người theo học thuyết Lutheran ngay trong Đế chế La Mã thần thánh nơi mà đại đa số người dân theo Công giáo. Hội đồng Trent mới chỉ đưa ra quyết định và ban ra sắc lệnh phản đối lại niềm tin của phe Tin lành, va Hòa ước Augsburg chỉ mới ban lệnh khoan hồng và dung nạp giáo lý Lutheranism trên toàn đế chế nơi người cầm quyền là người theo giáo lý Lutheran. Một trong những mục đích của cuốn sách giáo lý vấn đáp là nhằm trung hòa những bài giảng dạy của Nhà thờ Công giáo La mã cung như những tín đồ thuộc giáo phái Anabaptists và những người thuộc phe Lutheran "nghiêm ngặt hơn" ví dụ như Gnesio-Lutherans bao gồm các nhân vật như Tilemann HeshusiusMatthias Flacius, những người tích cực chống đối lại sức ảnh hưởng theo hướng Cách tân của Frederick, đặc biệt là về vấn đề Lễ ban thánh thể và Tiệc Thánh (the Lord's Supper). Bản giáo lý vấn đáp ghi rõ từng lời tuyên bố đều được dựa trên lời dân chứng từ Kinh thánh, và bàn thân vua Frederick cũng phản kháng cho rằng đó là lời trong kinh thánh, không phải do phe Cách tân vào năm 1566 trong Nghị viện Augsburg khi ông bị gọi đích danh và yêu cầu phải trả lời trước tòa về tội xâm phạm Hiệp ước hòa bình Augsburg. Văn bản này chính là Sách giáo lý Heidelberg, với tên gọi chính thức là ″Sách giáo lý vấn đáp, hay Hướng dẫn về Đạo thiên chúa, theo cách sử dụng tại Nhà thờ và trường học tại vùng Tuyển hầu tước Palatinate.″

Đường đi bộ Phố Chính (Hauptstrasse) tại Heidelberg.

Vào tháng 11 năm 1619, vương miện hoàng gia Bohemia được trao cho Tuyển hầu tước Frederick V. (Ông cưới công chúa Elizabeth của Bohemia, con gái lớn nhất của vua James VI and I lần lượt của Scotland và vương quốc Anh). Frederick trở thành vua với tên gọi "Winter King - Vua mùa đông", do ông chỉ lên ngôi trong một mùa đông trước khi Gia tộc hoàng gia House of Habsburg giành lại vương quyền bằng bạo lực. Nhà vua bị lật đổ vào năm 1621 đánh dấu bước khởi đầu của cuộc Chiến tranh Ba mươi năm. Vào năm 1622, sau một trận chiếm giữ thành trong vòng hai tháng, đội quân Liên minh Công giáo, do Johann Tserclaes, Bá tước vùng Tilly lãnh đạo, đã chiếm giữ thành phố. Tilly đã tặng Bibliotheca Palatina từ Nhà thờ Chúa thánh thần Heidelberg cho Giáo hoàng làm quà tặng. Chi nhánh Công giáo vùng Bavarian của gia tộc Wittelsbach giành lại quyền kiểm soát vùng Palatinate và tước hiệu Tuyển hầu. Vào năm 1648, cuối cuộc chiến tranh, con của vua Frederick V là Charles I Louis, Elector Palatine, đã có thể giành lại tước hiệu và đất đai.

Urbain de Maillé-Brézé đã tham gia chiến đấu trong nhiều trận chiến và tham gia vào trận vây hãm La Rochelle (1627–1628). Vào năm 1635, ông đã chinh phục Heidelberg và Speyer, cùng với Jacques-Nompar de Caumont, duc de la Force, với vai trò lãnh đạo quân đội Đức.

Để củng cố vương quyền của mình, vua Charles I Louis đã sắp đặt một cuộc hôn nhân giữa con gái mình Liselotte với Philip I, Công tước Orléans, anh của vua Louis XIV, vua nước Pháp. Vào năm 1685, sau cái chết của con trai tuyển hầu Charles Louis Charles II, Louis XIV tuyên bố giành lấy quyền thừa kế của chị dâu mình. Người Đức từ chối vô hiệu hóa tuyên bố này, một phần là do sự khác biệt về tôn giáo giữa đạo Tin lành địa phương và đạo Công giáo của nước Pháp, bởi phong trào Cải cách Tin lành đã chia rẽ dân chúng trên toàn châu Âu. Cuộc chiến tranh giữa các đại gia tộc xảy ra từ đó. Vào năm 1689, quân đội Pháp chiếm lấy thành phố và lâu đài, gần như phá hủy toàn bộ khu vực này vào năm 1693. Do thành phố bị phá hủy trầm trọng sau khi người Pháp liên tục xâm chiếm vùng này trong cuộc chiến tranh giành quyền kế vị Palatinate củng với tình trạng mùa đông khắc nghiệt trong nhiều năm, hệ quả là hàng ngàn người Đức theo đạo Tin lành sống tại vùng Palatines đã di cư khỏi vùng Hạ Palatinate trong giai đoạn đầu thế kỉ 18. Họ bỏ đi tới các thành phố châu Âu khác, và đặc biệt quy tụ rất đông tại Luân Đôn (tại đó những người tị nạn được gọi là "những người Palatines đáng thương"). Do thông cảm với người đồng đạo Tin lành, trong những năm từ 1709–1710, chính phủ Anh dưới quyền của nữ hoàng Anne của Đại vương quốc Anh đã sắp xếp phương tiện giao thông, hỗ trợ cho gần 6,000 người gốc vùng Palatines tới New York. Những người khác được chuyển tới Pennsylvania, và tới South Carolina. Họ đã làm việc trên tàu để sống và trang trải cho cuộc hành trình vượt biển, và cuối cùng đã định cư tại các khu vực thuộc địa của Anh tại đây.

Cầu Cũ, tranh của Konrad Linck, năm 1788.

Vào năm 1720, sau khi chuyển giao lại toàn bộ một tòa nhà thờ lớn để dành riêng cho đạo Công giáo, các vụ mâu thuẫn tôn giáo, hầu hết là với những người dân sông tại Heidelberg theo đạo Tin lành, đã khiến Tuyển hầu tước theo đạo Công giáo La Mã là Charles III Philip phải chuyển nơi ở đến thành phố Mannheim gần đó. Cung điện vẫn ở tại đây cho đến khi Tuyển hầu tước Charles Theodore trở thành Tuyển hầu tước vùng Bavaria vào năm 1777 và bắt tay xây dựng cung điện của mình tại Munich. Vào năm 1742, Tuyển hầu tước Charles Theodore bắt đầu tái xây dựng lại dinh thự này. Vào năm 1764, một trận sấm sét đã phá hủy những tòa dinh thự khác trong khi đang xây sửa, do đó công trình này đã bị bỏ lửng giữa chừng.

Năm 1803 tới năm 1933

Heidelberg thất thủ và rơi vào tay Đại công tước vùng Baden vào năm 1803. Charles Frederick, Đại công tước vùng Baden, xây dựng lại trường đại học, và đặt tên trường là "Ruperto-Carola" theo tên của hai nhà sáng lập nên học viện. Những nhà học giả trứ danh nhanh chóng đem lại cho trường tiếng tăm lừng lẫy, và là "nơi ở hoàng gia của những nhà trí thức". Vào thế kỉ 18, thành phố được xây dựng lại theo phong cách kiến trúc Baroque trên nền thành phố Cựu trung cổ.

Vào năm 1810, Bá tước Charles Graimberg, người đến đây tị nạn trong cuộc Cách mạng Pháp bắt đầu bảo tồn lại những cung điện đổ nát tại đây, và xây dựng một bộ sưu tập lịch sử. Vào năm 1815, Hoàng đế nước , Hoàng đế nước Nga và vua nước Phổ thành lập nên "Holy Alliance - Liên minh thần thánh" tại Heidelberg. Vào năm 1848, cuộc họp hội đồng quốc gia Đức đã được tổ chức tại đây. Vào năm 1849, trong cuộc nổi dậy của nhân dân vùng Palatinate-Baden, thuộc Cuộc cách mạng 1848, Heidelberg là trụ sở đầu não của một đội quân khởi nghĩa. Đội quân này đã thất bại trước quân đội nước Phổ trong trận chiến ở gần Waghaeusel. Thành phố đã bị quân đội Phổ chiếm đóng cho tới tận năm 1850. Trong giai đoạn giữa năm 1920 tới năm 1933, Đại học Heidelberg trở thành trung tâm của các nhà vật lý học danh tiếng như Czerny, Erb, and Krehl; và các nhà nhân loại học Rohde, Weber, and Gandolf.

Thời kì Phát xít và giai đoạn chiến tranh

Cổng qua Cầu Cũ phía Khu Cổ Thành.

Trong thời kì phát xít (1933–1945), Heidelberg đã từng là pháo đài của NSDAP, (Đảng công nhân Xã hội quốc gia Đức - National Socialist German Workers' Party) đảng mạnh nhất trong các cuộc bầu cử trước năm 1933 (Đảng NSDAP giành được 30% số phiếu bầu tại các cuộc bầu cử cấp địa phương vào năm 1930[10]). Đảng NSDAP nhận được 45.9% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử liên bang Đức vào tháng 3 năm 1933 (trung bình trên toàn quốc là 43.9%).[11] Những người không thuộc chủng tộc Aryan làm việc tại trường đại học đã phải chịu nhiều phân biệt đối xử. Cho tới năm 1939, một phần ba những cán bộ thành viên trong hội đồng giảng viên đã bị buộc thôi việc vì những lý do chủng tộc hoặc chính trị. Những giáo sư không phải người Aryan đã bị từ chối vào năm 1933, chỉ trong vòng một tháng kể từ khi Hitler lên nắm quyền lực. Danh sách những người sẽ bị trục xuất lưu đày đã được chuẩn bị sẵn từ trước.[mơ hồ][cần dẫn nguồn]

Từ năm 1934 tới năm 1935, Reichsarbeitsdienst (Cục lao động quốc gia) và sinh viên đại học Heidelberg xây dựng một nhà hát vòng tròn Thingstätte lớn trên đỉnh núi Thánh Heiligenberg ở phía bắc thành phố, nhằm phục vụ cho các sự kiện quả Đảng phát xít Nazi và quân đoàn SS. Vài tháng sau, lễ khánh thành nghĩa địa tưởng niệm lớn Ehrenfriedhof là dự án thứ hai và cũng là dự án cuối cùng của NSDAP tại Heidelberg. Nghĩa địa này ở phía nam khu phố cũ của thành phố, xuôi một chút về phía nam đỉnh đổi Königstuhl. Trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai và sau đó, binh lính Wehrmacht đã được chôn cất tại đây

Bia tưởng niệm đánh dấu vị trí giáo đường Do Thái ngày xưa trên phố Lauerstrasse

Trong đêm Kristallnacht vào ngày 9 tháng 11 năm 1938, quân đội phát xít đã đốt trụi các Giáo đường Do thái tại hai địa điểm trong thành phố. Ngày hôm sau, họ bắt đầu trục xuất có hệ thống những người gốc Do thái, gửi 150 người tới Trại tập trung Dacha. Vào ngày 22 tháng 10 năm 1940, Trong sự kiện "Wagner Buerckel", phe phát xít đã trục xuất 6000 người do thái địa phương, bao gồm 281 người từ Heidelberg, tới Trại Gurs - trại tập trung tại Pháp. Trong vòng một vài tháng, có tới 1000 người trong số họ (trong đó có 201 người từ Heidelberg) đã chết do thiếu đói và bệnh tật.[12] Trong số những người bị trục xuất ra khỏi Heidelberg, có nhà thơ Alfred Mombert (1872–1942) đã được thoát khỏi trại vào tháng 4 năm 1941 nhờ sự giúp đỡ của nhà thơ người Thụy Sĩ Hans Reinhart.[13] Từ năm 1942, những người bị trục xuất nhưng đã sống sót trong cảnh giam giữ ở Gurs, một lần nữa bị lưu đày tới phía Đông Âu, nơi hầu hết bọn họ đều bị giết hại.

Vào ngày 29 tháng 3 năm 1945, quan đội Đức bỏ lại thành phố sau khi phá hủy ba vòm cong của cây cầu cổ, con đường vắt ngang sông quý giá của thành Heidelberg. Họ cũng phá hủy những cây cầu hiện đại hơn ở phía hạ nguồn sông Neckar. Quân đội Hoa Kỳ (Đoàn bộ binh số 63, thuộc Quân đoàn số 7) tiến vào thành phố vào ngày 30 tháng 3 năm 1945. Dân chúng thường dân trong thành đầu hàng không chống cự.[14]

Rất nhiều người đã tin rằng thành phố Heidelberg thoát khỏi cảnh bị dội bom trong chiến tranh thế giới thứ Hai vì quân đội Mỹ muốn sử dụng thành phố này làm địa điểm đóng quân đồn trú sau chiến tranh. Nhưng vấn đề chính là do Heidelberg không phải một trung tâm công nghiệp, và cũng không phải điểm trung chuyển giao thông, do đó thành phố này không phải là mục tiêu hàng đầu. Nhiều thành phố đại học danh tiếng khác, ví dụ như TübingenGöttingen, cũng đều thoát khỏi cảnh bị đánh bom. Các cuộc đột kích trên không của không quân Đồng minh tập trung chủ yếu vào các thành phố công nghiệp gần đó là MannheimLudwigshafen.

US Army 289th Engineer Combat Battalion ferrying troops and vehicles over the Neckar at Heidelberg.

Quân đội Hoa kỳ có lẽ đã chọn Heidelberg làm địa điểm đóng quân đồn trú sau chiến tranh là do hệ thống cơ sở hạ tầng chất lượng cao, bao gồm cả tuyến đường Autobahn (đường cao tốc dành cho xe gắn máy) Heidelberg-Mannheim, tuyến đường này nối liền với tuyến Autobahn Mannheim-Darmstadt-Frankfurt, và các căn cứ quân đội Hoa Kỳ tại MannheimFrankfurt. Hệ thống cơ sở hạ tầng đường sắt vẫn còn nguyên vẹn từng đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn cuối những năm 1940s và đầu những năm 1950s, khi mà hầu hết các khoản vận chuyển hạng nặng vẫn được chở bằng tàu hỏa, chứ không phải bằng xe tải. Heidelberg cũng có các trại đóng quân của đồn Wehrmacht chưa hề bị phá hủy, từng được gọi là "Grossdeutschland Kaserne", các trại này đã bị quân đội Hoa kỳ nhanh chóng chiếm đóng, và đổi tên thành trại đóng quân Campbell Barracks.

Lịch sử sau 1945

Vào năm 1945, trường đại học đã được mở cửa trở lại khá nhanh chóng, nhờ vào sự khởi xướng của một nhóm nhỏ các giáo sư, trong đó có nhà kinh tế học phản-phát xít là Alfred Weber và nhà triết học Karl Jaspers.[15] Bác sĩ phẫu thuật Karl Heinrich Bauer là hiệu trưởng được bổ nhiệm.

Vào ngày 9 tháng 12 năm 1945, Đại tướng quân đội Hoa Kỳ George S. Patton đã gặp tai nạn xe hơi tại thành phố Mannheim gần đó, và chết tại bệnh viên quân đội Mỹ tại Heidelberg vào ngày 21 tháng 12 năm 1945. Lễ truy điệu tiễn đưa đã được tổ chức tại Christuskirche (Nhà thờ chúa Christ) ở Heidelberg-Weststadt, và ông được an táng tại nghĩa trang quân đội số 3 ở Luxembourg.[16]

Trong giai đoạn chiếm đóng quân sự sau chiến tranh, Quân đội Hoa Kỳ đã sử dụng nhà hát Thingsstätte cho các sự kiện văn hóa và tôn giáo. Việc sử dụng cho mục đích dân sự bắt đầu khoảng từ giai đoạn đầu cho đến giữa những năm 1980s, trong các dịp tổ chức hòa nhạc hoặc hoạt động văn hóa. Ngày nay, các lễ kỉ niệm Hexennacht ("Đêm của phù thủy"), hay còn gọi là Đêm Walpurgis), đêm ngày 30 tháng 4 là hoạt động cố định "ngầm" diễn ra thường niên tại Thingstätte. Hàng ngàn người, đa phần là người trẻ, tụ tập tại đây để chơi trống, thở ra lửa và tung hứng.Thousands of mostly young people congregate there to drum, to breathe fire, and to juggle. Sự kiện này đã nổi danh khắp vùng, cũng như có một chút tiếng xấu nhất định về việc số lượng rác thải bị bỏ lại sau sự kiện.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Heidelberg http://www.intellicast.com/Local/History.aspx?loca... http://www.statistik.baden-wuerttemberg.de/SRDB/Ta... http://www.blb-karlsruhe.de/blb/blbhtml/besondere-... http://www.dwd.de/bvbw/appmanager/bvbw/dwdwwwDeskt... http://ww2.heidelberg.de/wahl/wahlen2014/html/gr20... http://www.heidelberg.de/ http://www.klimadiagramme.de/Deutschland/heidelber... http://www.ogbw.de/doc/Abstract_WegenerSittiche.pd... http://www.eu.dodea.edu/schools/index.php?dId=2 http://www.bw.eur.army.mil/news/HPpdf/2010/July_1_...